Phục hồi chức năng vận động là gì? Các công bố khoa học về Phục hồi chức năng vận động

Phục hồi chức năng vận động là quá trình tái tạo và tăng cường khả năng vận động sau một chấn thương, bệnh tật hoặc sự suy yếu do tuổi tác. Nó nhằm khôi phục và...

Phục hồi chức năng vận động là quá trình tái tạo và tăng cường khả năng vận động sau một chấn thương, bệnh tật hoặc sự suy yếu do tuổi tác. Nó nhằm khôi phục và nâng cao sự linh hoạt, sức mạnh, sự cân bằng và khả năng chuyển động của cơ thể. Quá trình này có thể bao gồm các phương pháp hồi phục như tập luyện vật lý, tập thể dục, yoga, xoa bóp, điều chỉnh dinh dưỡng và thưa dần việc sử dụng liệu pháp hỗ trợ như dụng cụ hỗ trợ hoặc kháng cự.
Phục hồi chức năng vận động được thực hiện bởi các chuyên gia y tế, như các nhân viên y tế chuyên về vật lý trị liệu hoặc lĩnh vực tương tự. Quá trình này bắt đầu bằng việc đánh giá và đặt mục tiêu cho việc phục hồi. Các chuyên gia sẽ đo lường và đánh giá mức độ suy yếu và hạn chế vận động của bệnh nhân, từ đó xác định những khía cạnh cần được tập trung.

Dựa vào đánh giá, các chuyên gia sẽ đưa ra kế hoạch điều trị cá nhân hóa. Điều trị có thể bao gồm một loạt các phương pháp, như:

1. Tập luyện vật lý: Đây là phương pháp chính để phục hồi chức năng vận động. Điều này có thể bao gồm các bài tập cơ bản như kéo dãn, tăng cường cơ bắp, tăng cường sức mạnh và cải thiện sự cân bằng. Tập luyện vật lý có thể được thực hiện thông qua các bài tập chuyên nghiệp, máy móc, dụng cụ hỗ trợ và bài tập trong nước hay ngoài trời.

2. Tập thể dục và hoạt động thể chất: Điều này có thể bao gồm hoạt động như đi bộ, chạy, bơi lội, tập yoga, các hoạt động nhóm như bóng đá hay bóng chuyền. Tập thể dục và hoạt động thể chất giúp cải thiện sức bền, linh hoạt và tăng khả năng chuyển động.

3. Xoa bóp và kỹ thuật điều trị bằng tay: Xoa bóp và kỹ thuật điều trị bằng tay là các phương pháp vật lý trị liệu trong đó chuyên gia sử dụng các kỹ thuật nhẹ nhàng để giải tỏa cơ và cải thiện chu kỳ máu lưu thông, làm dịu đau và giảm sưng.

4. Điều chỉnh dinh dưỡng: Một phần quan trọng của phục hồi chức năng vận động là cung cấp dinh dưỡng tốt cho cơ thể. Các chuyên gia có thể đề xuất thay đổi chế độ ăn uống để cung cấp đủ dưỡng chất và năng lượng cho việc phục hồi, bao gồm cả protein, vitamin và khoáng chất cần thiết.

5. Sử dụng dụng cụ hỗ trợ hoặc kháng cự: Một số trường hợp, như sau phẫu thuật hoặc chấn thương nghiêm trọng, có thể cần sử dụng dụng cụ hỗ trợ như gậy đi bộ, bánh xe lăn hoặc dụng cụ hỗ trợ khác để giúp bệnh nhân vận động tốt hơn. Các dụng cụ hỗ trợ này có thể giúp giảm tải trọng và hỗ trợ cơ thể trong quá trình phục hồi.

Quá trình phục hồi chức năng vận động thường là một quá trình dài và đòi hỏi sự kiên nhẫn, cam kết và sự hỗ trợ của các chuyên gia. Mục đích cuối cùng là đạt được sự độc lập và khả năng vận động tối đa của bệnh nhân trong cuộc sống hàng ngày.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "phục hồi chức năng vận động":

Đào tạo Cảm giác Vận động trong Môi trường Thực tế Ảo: Liệu có Cải thiện Phục hồi Chức năng sau Đột quỵ không? Dịch bởi AI
Neurorehabilitation and Neural Repair - Tập 20 Số 2 - Trang 252-267 - 2006

Mục tiêu. Nghiên cứu hiệu quả của việc huấn luyện bằng thực tế ảo (VR) trên máy tính cho bàn tay bị liệt nửa người sau đột quỵ, sử dụng hệ thống cung cấp đào tạo tái giáo dục vận động lặp đi lặp lại và tái thu nhận kỹ năng. Phương pháp. Tám đối tượng trong giai đoạn mãn tính sau đột quỵ đã tham gia vào một chương trình kéo dài 3 tuần, sử dụng bàn tay bị liệt nửa người trong một loạt trò chơi máy tính tương tác trong 13 ngày huấn luyện, nghỉ cuối tuần và các kiểm tra trước và sau. Mỗi đối tượng tham gia huấn luyện khoảng 2 đến 2,5 giờ mỗi ngày. Các biện pháp đánh giá bao gồm các thay đổi trong các chỉ số đo trên máy tính về phạm vi chuyển động ngón cái và ngón tay, tốc độ ngón cái và ngón tay, phân khúc (khả năng di chuyển các ngón tay một cách độc lập), sức mạnh ngón cái và ngón tay, Bài kiểm tra Chức năng Tay của Jebsen, và kiểm tra Kinematic nhằm nắm bắt. Kết quả. Nhóm đối tượng đã cải thiện khả năng phân khúc ngón tay, phạm vi chuyển động và tốc độ của ngón cái và ngón tay, duy trì những tiến bộ này trong kiểm tra giữ lại sau một tuần. Chuyển giao các cải thiện này được chứng minh qua sự thay đổi trong Bài kiểm tra Chức năng Tay của Jebsen và sự giảm thiểu thời gian tổng thể từ đỉnh tốc độ tay đến lúc nâng vật từ bàn sau liệu trình trị liệu. Kết luận. Hiện tại, rất khó để cung cấp cường độ thực hành cần thiết cho sự tái tổ chức thần kinh và những thay đổi chức năng sau đột quỵ trong các mô hình cung cấp dịch vụ hiện nay. Các hệ thống bài tập máy tính có thể là một cách để tối ưu hóa thời gian của cả bệnh nhân và bác sĩ lâm sàng. Dữ liệu trong nghiên cứu này bổ sung bằng chứng để đề xuất khám phá các công nghệ mới để tích hợp vào thực hành hiện tại.

#Đột quỵ; Huấn luyện thực tế ảo; Phục hồi chức năng; Liệt nửa người; Phân khúc ngón tay; Tái tổ chức thần kinh
KHẢO SÁT THỰC TRẠNG BỆNH NHÂN LIỆT NỬA NGƯỜI DO ĐỘT QUỴ NÃO TẠI BỆNH VIỆN Y HỌC CỔ TRUYỀN CAO BẰNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Khảo sát thực trạng bệnh nhân liệt nửa người do đột quỵ não tại bệnh viện Y học cổ truyền tại Cao Bằng. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả trên 180 bệnh nhân bị liệt nửa người do đột quỵ não đã điều trị tại bệnh viện Y học cổ truyền Cao Bằng thời gian từ ngày 1/1/2019 đến ngày 1/6/2020. Kết quả và kết luận: Tỉ lệ nam giới bị đột quỵ não chiếm đến 73,33%, còn nữ giới chiếm 26,67%. Tỷ lệ bị đột quỵ não dưới 60 tuổi là 67,22%, trên 60 tuổi là 32,78%. Tỷ lệ dân tộc kinh chiếm 8,89%, dân tộc tày 47,22%, các dân tộc khác chiếm 43,89%. Bệnh nhân bị liệt bên trái chiếm 53,89%, liệt bên phải chiếm 46,11%. Đột quỵ não do nhồi máu não chiếm tỉ lệ lớn đến 71,67%. Sau khi bị tai biến bệnh nhân được đưa đến viện chiếm 63,33%. Tỉ lệ bệnh nhân bị đột quỵ não được sử dụng kết hợp thuốc đông y và tây y chiếm tỉ lệ cao nhất 69,44%.
#Đột quỵ não #phục hồi chức năng #vật lý trị liệu #nhồi máu não #vận động trị liệu
CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG KHỚP GỐI SAU PHẪU THUẬT NỘI SOI GỠ DÍNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Tìm hiểu các yếu tố liên quan đến phục hồi chức năng vận động khớp gối sau phẫu thuật nội soi gỡ dính. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 32 bệnh nhân được chẩn đoán cứng khớp gối sau chấn thương đã được phẫu thuật nội soi gỡ dính tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức từ tháng 9/2020 đến tháng 9/2021. Các BN được điều trị phục hồi chức năng (PHCN) ngay sau phẫu thuật nội soi gỡ dính và liên tục trong 2 tháng. Tiến hành đánh giá BN theo Thang điểm đánh giá khớp gối “The Hospital for Special Surgery Knee Scores- HSS” tại các thời điểm trước và sau điều trị PHCN. Kết quả: Không có sự khác biệt có ý nghĩa về kết quả PHCN giữa nam và nữ với p >0,05. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về kết quả PHCN giữa 2 nhóm tuổi trên và dưới 60 tuổi với p>0,05. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về kết quả PHCN giữa các nhóm tổn thương ban đầu là tổn thương nội khớp, tổn thương ngoại khớp hay tổn thương phối hợp nội - ngoại khớp với p >0,05. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về kết quả PHCN giữa các nhóm phương pháp điều trị chấn thương bằng bảo tồn, phẫu thuật nội soi hay mổ mở với p>0,05. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về kết quả PHCN giữa các nhóm có thời gian từ lúc chấn thương đến khi phẫu thuật gỡ dính là < 3 tháng, 3 - 6 tháng  hay trên 6 tháng với p>0,05. Kết luận: Không có sự khác biệt có ý nghĩa về kết quả PHCN giữa 2 giới, giữa 2 nhóm tuổi trên và dưới 60 tuổi, giữa các nhóm tổn thương ban đầu là tổn thương nội khớp, tổn thương ngoại khớp hay tổn thương phối hợp nội - ngoại khớp, giữa các nhóm phương pháp điều trị chấn thương bằng bảo tồn, phẫu thuật nội soi hay mổ mở, giữa các nhóm bệnh nhân có thời gian từ lúc chấn thương đến khi phẫu thuật là < 3 tháng, 3 - 6 tháng  hay trên 6 tháng.
#Yếu tố liên quan #phục hồi vận động khớp gối #phẫu thuật nội soi gỡ dính
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG SỚM TRÊN BỆNH NHÂN SAU MỔ THAY KHỚP GỐI TOÀN BỘ DO THOÁI HÓA
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Thoái hóa khớp gối là nguyên nhân thứ 2 gây tàn tật sau bệnh tim mạch ở người có tuổi, tuy không ảnh hưởng đến tính mạng nhưng hệ quả của bệnh là đau khớp và tàn tật, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Thay khớp gối toàn bộ cho bệnh nhân thoái hóa khớp gối trở nên phổ biến hiện nay. Phục hồi chức năng sớm sau mổ đóng vai trò hết sức quan trọng giúp giảm phù nề, cải thiện tầm vận động khớp gối, tăng sức mạnh cơ và chức năng chi dưới, tránh các thương tật thứ cấp, giúp bệnh nhân đạt được độc lập trong cuộc sống hàng ngày, nâng cao chất lượng cuộc sống. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá kết quả phục hồi chức năng vận động sớm trên bệnh nhân sau mổ thay khớp gối toàn bộ do thoái hóa khi ra viện và sau mổ 1 tháng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 66 bệnh nhân từ 18-70 tuổi thay khớp gối toàn bộ một bên do thoái hóa tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức năm 2021-2022. Đây là nghiên cứu tiến cứu, mô tả, không đối chứng. Kết quả: so với trước tập, khi ra viện và sau 1 tháng, điểm VAS trung bình từ 5.7 giảm xuống 3.5 và 2.4. Mức độ đau chủ yếu là mức nhẹ hoặc vừa khi ra viện và sau 1 tháng. Cải thiện tầm vận động tốt khi ra viện và sau 1 tháng cả về tầm gấp và duỗi khớp gối. Cải thiện điểm chức năng LEFS, KSS so với trước tập có ý nghĩa thống kê. Bệnh nhân có thể đi được với 1 nạng hoặc không sử dụng dụng cụ trợ giúp khi đi lại, bệnh nhân có thể đi được quãng đường >250m sau 1 tháng. Kết luận: Tập phục hồi chức năng sớm sau phẫu thuật thay khớp gối toàn bộ do thoái hóa giúp bệnh nhân cải thiện mức độ đau, tầm vận động khớp và chức năng khớp gối.
#thay khớp gối toàn bộ #phục hồi chức năng sớm
ĐÁNH GIÁ TỔN THƯƠNG SỢI TRỤC VÀ DỰ ĐOÁN PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG Ở BỆNH NHÂN NHỒI MÁU CẤP TRÊN LỀU
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá tổn thương sợi trục và dự đoán phục hồi chức năng vận động ở bệnh nhân nhồi máu não cấp tính trên lều. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang gồm 28 bệnh nhân nhồi máu cấp tính trên lều và được chụp cộng hưởng từ tại bệnh viện Bạch Mai từ tháng 9 năm 2021 đến tháng 8 năm 2022. Kết quả: Tín hiệu sợi trục không thay đổi gặp ở phần lớn các bệnh nhân có bó sợi trục không đi qua ổ nhồi máu (28,6%), giảm mạnh tín hiệu sợi trục hay gặp ở bệnh nhân có bó sợi trục nằm hoàn toàn trong ổ nhồi máu (32,1%). Giá trị FA, ADC bó sợi trục bên nhồi máu nhỏ hơn so với bên đối diện, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhóm bệnh nhân có bó sợi trục không đi qua ổ nhồi máu hay không thay đổi tín hiệu sợi trục có tỷ lệ phục hồi vận động sau 3 tháng tốt hơn các nhóm còn lại (tỷ lệ tương ứng là 39,3% và 25%); nhóm bệnh nhân có bó sợi trục nằm hoàn toàn trong ổ nhồi máu hay có tín hiệu sợi trục giảm mạnh phục hồi rất kém (tỷ lệ tương ứng là 32,1% và 39,3%), với p<0,05. Giá trị FA bó sợi trục bên nhồi máu ở nhóm bệnh nhân hồi phục kém nhỏ hơn nhóm bệnh nhân hồi phục tốt, khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Giá trị ADC không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Kết luận: Các yếu tố tín hiệu bó sợi trục, vị trí bó sợi trục so với ổ nhồi máu và giá trị FA bó sợi trục bên nhồi máu có ý nghĩa dự đoán phục hồi vận động sau 3 tháng ở bệnh nhân nhồi máu cấp tính.
#cộng hưởng từ khuếch tán sức căng (DTI) #bó sợi trục (CST) #dị hướng phân đoạn (FA) #hệ số khuếch tán (ADC)
Cải thiện khả năng nhận thức của người chăm sóc chính về phục hồi vận đông cho người bệnh đột quỵ.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 1 Số 3 - Trang 10-15 - 2018
Mục tiêu: Đánh giá kết quả thay đổi khả năng nhận thức của người chăm sóc chính về phục hồi chức năng vận động cho người bệnh đột quỵ sau can thiệp giáo dục. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu can thiệp giáo dục một nhóm có đánh giá trước sau được tiến hành trên 54 người chăm sóc chính của người bệnh đột quỵ điều trị nội trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh từ 01/2017 - 04/2017. Tài liệu can thiệp được xây dựng dựa trên Hướng dẫn của Bộ Y tếvề Phục hồi chức năng sau tai biến mạch não năm 2008. Kết quả: Sau can thiệp, khả năng nhận thức của người chăm sóc chính về phục hồi chức năng vận động cho người bệnh đột quỵ được cải thiện đáng kể. Cụ thể, điểm trung bình kiến thức tăng đến 12,94 ± 1,23 điểm sau can thiệp so với 5,41 ± 2,07 điểm ở trước can thiệp (p < 0,001). Trước can thiệp, tỷ lệ NCSC có kiến thức đạt là 3,7%, không đạt là 96,3%. Sau can thiệp tỷ lệ này tăng lên đáng kể. Số người chăm sóc chính có kiến thức đạt chiếm 98,1%, không đạt là 1,9%. Kết luận: Người chăm sóc chính người bệnh đột quỵ còn nhận thức hạn chế về phục hồi chức năng vận động cho người bệnh ở trước can thiệp nhưng đã được cải thiện đáng kể sau can thiệp.
#Đột quỵ #kiến thức #phục hồi chức năng vận động #người chăm sóc chính
Cải thiện khả năng thực hành của người chăm sóc chính về phục hổi vận động cho người bệnh đột quỵ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 1 Số 2 - Trang 23-29 - 2018
Mục tiêu: Đánh giá kết quả thay đổi khả năng thực hành của người chăm sóc chính về phục hồi chức năng vận động cho người bệnh đột quỵ sau can thiệp giáo dục tại bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh năm 2017. Phương pháp: Nghiên cứu can thiệp giáo dục một nhóm có đánh giá trước sau được tiến hành trên 54 người chăm sóc chính của người bệnh đột quỵ. Việc huấn luyện các bài tập phục hồi vận động cho người chăm sóc chính dựa trên Hướng dẫn của Bộ Y tế về Phục hồi chức năng sau tai biến mạch não năm 2008. Đánh giá kết quả bằng quan sát có sử dụng bảng kiểm giống nhau cho trước và sau can thiệp. Kết quả: Sau can thiệp,khả năng thực hành của người chăm sóc chính về phục hồi chức năng vận động cho người bệnh đột quỵ được cải thiện đáng kể. Cụ thể,điểm trung bình kỹ năng thực hành tăngđến 31,56 ± 2,38 điểm sau can thiệp so với 17,37 ± 4,01 điểm ở trước can thiệp (p < 0,001). Trong đó, điểm trung bình kỹ năng thực hành tư thế đúng cho người bệnh trước can thiệp là 10,56 ± 2,82, sau can thiệp đạt tới 18,30 ±1,96. Trước can thiệp chỉ có 5,6% đối tượng tham gia nghiên cứu có kỹ năng thực hành đạt, sau can thiệp tăng tỷ lệ này tăng đến 98,1%. Kết luận: Những hạn chế của người chăm sóc chính về thực hiện các bài tập phục hồi chức năng vận động chongười bệnh đột quỵ trước can thiệp đã được cải thiện đáng kể sau can thiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy tầm quan trọng của việc hướng dẫn trực tiếp từ người điều dưỡng cho người chăm sóc chính người bệnh đột quỵ, để họ tiếp tục thực hiện phục hồi vận động cho người bệnh khi ra viện và gói can thiệp nên được thực hiện thường quy.
#Đột quỵ #thực hành #phục hồi chức năng vận động #người chăm sóc chính
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG VÀ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN GÃY CỔ XƯƠNG ĐÙI SAU PHẪU THUẬT THAY KHỚP HÁNG BÁN PHẦN TẠI TỈNH AN GIANG NĂM 2020 - 2021
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 510 Số 1 - 2022
Đặt vấn đề: gãy cổ xương đùi thường gặp ở người cao tuổi, thay khớp hang bán phần là phương pháp điều trị thường được áp dụng. Mục tiêu: đánh giá kết quả phục hồi chức năng vận động, chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 84 bệnh nhân cao tuổi thay khớp háng bán phần. Kết quả: phục hồi chức năng vận động loại tốt và rất tốt tăng dần từ 1 tháng là 1,2% đến 3 tháng là 41,6 % và đến 6 tháng là 75% và ngược lại kết quả trung bình kém giảm dần từ 98% tháng 1 xuống 58,39% tháng thứ 3 và còn 24,79% tháng thứ 6. Kết quả tốt và rất tốt gặp chủ yếu ở nữ, 60-69 tuổi, có bệnh đi kèm, Garden 3,4. Kết quả điểm số  chất lượng cuộc sống khá tốt và tốt của bệnh nhân tăng dần ở các thời điểm đánh giá 1 tháng (0%), 3 tháng (2,4%) và 6 tháng (47,6%). Chất lượng cuộc sống khá tốt và tốt tập trung vào các đối tượng nữ, <70 tuổi, có bệnh đi kèm, Garden 3 và 4. Kết luận: thay khớp hang bán phần giúp phục hồi chức năng vận động và cải thiện chất lượng cuộc sống.
#gãy cổ xương đùi #thay khớp hang bán phần #phục hồi chức năng vận động #chất lượng cuộc sống
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG PHÁP GƯƠNG TRỊ LIỆU ĐẾN CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG Ở BỆNH NHÂN LIỆT NỬA NGƯỜI DO ĐỘT QUỴ NÃO TẠI BỆNH VIỆN Y HỌC CỔ TRUYỀN CAO BẰNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của phương pháp gương trị liệu đến chức năng vận động ở bệnh nhân liệt nửa người do đột quỵ não. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả mô tả can thiệp đối chứng trên 180 bệnh nhân bị liệt nửa người do đột quỵ não đã điều trị tại bệnh viện Y học cổ truyền Cao Bằng thời gian từ ngày 3/7/2018 đến ngày 3/7/2020. Kết quả và kết luận: Sau 3 tháng can thiệp bằng phương pháp gương trị liệu ở nhóm can thiệp có 94,44% ngồi vững (trước điều trị 73,33%). Có 64,44% bệnh nhân tự đi lại được (trước tập là 32,22%). Mức độ vận động bàn tay liệt gia tăng sau thời gian điều trị 3 tháng ở cả hai nhóm, kết quả ở nhóm can thiệp cải thiện rõ rệt hơn so với nhóm chứng với mức độ vận động tốt và khá đến 75,56% (nhóm chứng chiếm 52,22%). Mức độ khéo léo bàn tay liệt gia tăng sau thời gian điều trị 3 tháng, với mức độ khéo léo 4,5,6 là mức độ khéo léo nhất chiếm 56,66% (trước điều trị 2,22%).
#Đột quỵ não #phục hồi chức năng #vật lý trị liệu #nhồi máu não #vận động trị liệu #gương trị liệu.
Tổng số: 41   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5